KẺ ĂN CƯỚP BAO GIỜ CŨNG HẬM HỰC

19:55 |
Trung Quốc cho rằng ASEAN không liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển Đông khi Tổng thư ký ASEAN cho biết hiệp hội bác bỏ "đường 9 đoạn" của Bắc Kinh.
Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh. Ảnh: Reuters
Trong một phát biểu với nhật báo Philippines Manila Times vào 4/3, ông Lê Lương Minh, Tổng thư ký ASEAN, cho biết Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á bác bỏ cái gọi là “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc dùng để khẳng định yêu sách chủ quyền tại Biển Đông.
Theo Tổng thư ký Lê Lương Minh, sự hội nhập của toàn khối Đông Nam Á có thể bị ảnh hưởng nếu xảy ra “bất kỳ một hành vi thù địch hay xung đột nào” trong khu vực.
Reuters dẫn lời ông Hồng Lỗi, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, hôm qua cho rằng Tổng Thư ký ASEAN Lê Lương Minh "đã nhiều lần đưa ra các tuyên bố không phù hợp với thực tế hoặc không phù hợp với vị trí của ông" về tình hình Biển Đông. 
Hồng Lỗi cho rằng hiệp hội ASEAN không phải là một bên liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi đó Trung Quốc đã ký với ASEAN Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Hai bên cũng đang xúc tiến việc ký kết Bộ Quy tắc ứng xử của các bên (COC). Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với nhiều thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. 
Trung Quốc đã đưa ra cái gọi là "đường 9 đoạn" nhằm đòi kiểm soát hầu hết khu vực Biển Đông. Nhiều nước và các chuyên gia quốc tế cho rằng "đường 9 đoạn" của Bắc Kinh là vô căn cứ, không phù hợp với luật pháp quốc tế. 
Trung Quốc gần đây đang tăng cường việc bồi đắp các đá ở Trường Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam, nhằm biến thành các đảo nhân tạo. Việt Nam nhiều lần đề nghị Trung Quốc ngưng hoạt động phi pháp này. Các nước khác như Mỹ, Philippines cũng lên tiếng phản đối và cảnh báo nguy cơ xung đột trong khu vực nếu Bắc Kinh hoàn thành việc xây dựng các cơ sở hạ tầng được cho là căn cứ quân sự này
.

GÁC BÚT NGHIÊNG ANH LÊN ĐƯỜNG VÌ CHỦ QUYỀN TỔ QUỐC

08:31 |
Trong 64 liệt sĩ hy sinh ở đảo Gạc Ma (Trường Sa) năm 1988, liệt sĩ Nguyễn Văn Phương từng thi đậu trường Sĩ quan Lục quân 1, nhưng không đi học mà tham gia lực lượng hải quân bảo vệ biển đảo.

27 năm sau ngày xảy ra sự kiện hải chiến Trường Sa, di vật của liệt sĩ Nguyễn Văn Phương ở xã Mê Linh (Đông Hưng, Thái Bình) chỉ còn bộ quân phục hải quân, những lá thư ố vàng và giấy báo nhập học của trường Sĩ quan Lục quân 1 mà gia đình trân trọng gìn giữ. Những kỷ vật được cất kỹ trong tủ, bà Nguyễn Thị Gái ít khi dám lấy ngắm nhìn bởi mỗi lần thấy là nỗi nhớ thương con lại trào về, nước mắt lại rơi. 
IMG-1701-JPG-6903-1426034172.jpg
Liệt sĩ Nguyễn Văn Phương (sinh năm 1968) hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988. Ảnh: Hoàng Phương.
Bà Gái bảo, khoảnh khắc đau đớn nhất cuộc đời là lúc nhận tin con hy sinh. Sáng hôm đó, bà đang rửa mặt ngoài sân thì nghe đài báo tin về Gạc Ma, danh sách liệt sĩ hải quân lần lượt được đọc lên. Khi nghe các con bảo "Bu ơi, anh Phương hy sinh rồi", bà Gái còn quát lại "Nói láo". Sau khi nghe lại lần nữa thì bà ngơ ngẩn cả người.
Bà Gái luôn tự hào trong số 4 người con, anh Phương đẹp trai, học khá nhất, "chơi bóng cũng giỏi mà cấy lúa thì nhanh chẳng kém các cô gái trong làng". Năm 1985, khi học xong cấp 3, anh trúng tuyển vào trường Sĩ quan Lục quân 1 và có giấy gọi nhập học nhưng không đi. Đến đợt tuyển quân mới, anh đăng ký vào hải quân, đơn vị đóng tại Hải Phòng.
"Khi ấy, thằng bé cứ chần chừ rồi bảo không đi học nữa. Nó ước mơ trở thành chiến sĩ hải quân, lênh đênh trên biển như bố", người mẹ kể và hồi tưởng lại lúc con trai còn thơ bé thường thích đội chiếc mũ hải quân của bố đi chơi.
Ngày con trai nhập ngũ, ông Nguyễn Văn Mạo dành dụm mua cho anh đôi dép nhựa Tiền phong. Nhận được quà, chàng trai vui vẻ xách ba lô lên đường. Đơn vị đóng quân ở Hải Phòng, Quảng Ninh rồi chuyển vào Sài Gòn, anh đều viết thư về hỏi thăm bố mẹ, các anh em, họ hàng, rồi hỏi lúa cấy ở nhà có tốt không.
IMG-1670-JPG-9676-1426034172.jpg
Nguyện vọng lớn nhất cuộc đời bà Nguyễn Thị Gái là tìm thấy được hài cốt con trai. Ảnh: Hoàng Phương.
Lá thư cuối cùng anh viết ngày 6/3/1988, trước khi xuống tàu ra Gạc Ma. Như có linh cảm trước, anh bảo "từ nay con không viết thư về nữa, vì công việc bận, bưu điện lại quá xa" và dặn dò "Gia đình cứ yên tâm, đừng nghĩ ngợi nhiều cho con và con ra đi sẽ không hẹn ngày về. Bao giờ về là về thôi, chứ bây giờ cũng chẳng được về thăm gia đình nữa".
Có ai ngờ câu nói ấy thành sự thật. Ngày 14/3/1988, các tàu chiến của Trung Quốc ngang ngược lao lên đảo Gạc Ma, nổ súng vào bộ đội đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các đảo Cô Lin, Gạc Ma, Len Đao. Chàng trai Nguyễn Văn Phương cùng 63 đồng đội hy sinh. 
Ngồi ở một góc giường nghe mẹ kể chuyện, chị Nguyễn Thị Thoa len lén lau nước mắt. Trong ký ức của cô em gái, người anh trai ấy rất hiền, luôn giành làm việc để em có thời gian học. Nhiều cô gái trong thôn thầm mến nhưng anh chưa để ý ai.
Ngày nhận được tin anh hy sinh, cô bé Thoa khi ấy khóc từ trường khóc về, đến nhà thì thấy sân trước sân sau đều chật kín láng giềng đến hỏi thăm. Ai nghe tin cũng ngờ ngợ, vì hòa bình rồi mà tại sao các anh lại hy sinh. "Mẹ tôi khóc ròng rã. Bố tôi khi ấy làm chủ tịch xã, nghe được tin là lúc ông đang vận động người dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Ông vẫn phải nuốt nước mắt làm cho xong nhiệm vụ mới về nhà. An ủi vợ con thật đấy, nhưng thi thoảng tôi vẫn thấy ông đứng ở góc nhà mà khóc, rồi đấm ngực thùm thụp", chị Thoa kể.
Ông Bùi Ngọc Trìu, cán bộ xã Mê Linh, nhớ mãi những kỷ niệm thời thơ bé khi còn học cùng trường làng với liệt sĩ Nguyễn Văn Phương. Ông Trìu lớn hơn anh Phương 3 tuổi nhưng chơi rất thân. "Cả đám thường đi chăn trâu rồi ra ngay con sông đầu làng tắm mát. Phương bơi cừ lắm. Có ai ngờ được cậu ấy lại hy sinh ở ngoài biển, đến nay còn chưa tìm được hài cốt".
IMG-1711-JPG-3998-1426034172.jpg
27 năm trôi qua, di vật còn lại của liệt sĩ Phương là bộ quần áo hải quân và những lá thư anh gửi về trước khi lên tàu ra đảo. Hài cốt anh vẫn còn nằm lại Trường Sa, chưa tìm thấy. Ảnh: Hoàng Phương.
Năm 2008, tàu của thợ lặn Lý Sơn (Quảng Ngãi) tìm được một phần hài cốt 64 chiến sĩ dưới con tàu HQ 604 ở độ sâu khoảng 20 m tại cụm đảo Sinh Tồn (Trường Sa). Bà Gái thấp thỏm hy vọng khi được lấy mẫu xét nghiệm ADN, nhưng rồi lại phải thất vọng khi không có kết quả.
Tay mân mê lần giữ từng nếp chiếc áo hải quân, người mẹ 80 tuổi bồi hồi tưởng tượng nếu anh không hy sinh thì bây giờ cũng có một gia đình nho nhỏ, lấy vợ, sinh cho bà những đứa cháu ngoan ngoãn.
"Ước mong duy nhất của đời mẹ là tìm được hài cốt của con, đưa về quê an táng. Ngày nào còn chưa làm được việc đó thì nỗi đau trong lòng mẹ vẫn chưa nguôi", bà Gái nghẹn ngào nói.
Cuối năm 1987, Trung Quốc đơn phương đưa tàu chiến hoạt động ở vùng biển Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bộ Quốc phòng chỉ đạo Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa. Đầu tháng 3, các tàu HQ 604, 605 mang theo lực lượng công binh và lực lượng ra Trường Sa cắm mốc chủ quyền, xây dựng cụm đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trong chiến dịch CQ-88. Tàu HQ-505 làm nhiệm vụ trực tại Trường Sa nhận lệnh chuyển đến đảo Cô Lin.
Ngày 14/3/1988, các tàu chiến của quân Trung Quốc ngang ngược và bất chấp luật pháp quốc tế, dùng pháo lớn bắn vào các tàu HQ-604 ở đảo Gạc Ma, HQ-605 ở đảo Len Đao và HQ-505 ở đảo Cô Lin; cho quân đổ bộ lên đảo Gạc Ma nhổ cờ và nổ súng vào bộ đội Việt Nam.
Sau trận hải chiến, 2 tàu vận tải của Việt Nam bị chìm, 64 chiến sĩ hy sinh, 9 người bị bắt làm tù binh. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh, chiếm giữ trái phép đảo Gạc Ma.

VỊ ĐÔ ĐỐC CẢ CUỘC ĐỜI GẮN VỚI CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC

17:16 |
Trong dòng chảy vô cùng ấy, Đô đốc Giáp Văn Cương là một nhân chứng, cái gạch nối của nhiều thế hệ. Ông đã lên rừng và cũng là người con xuống biển. Nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến vị tướng già tận tụy đến hơi thở cuối cùng, Đô đốc đầu tiên của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1984 - 1990, do tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến xấu, Đô đốc Giáp Văn Cương đã được Bộ Quốc phòng điều động làm Tư lệnh Hải quân lần thứ hai (lần đầu từ 1977 - 1980)

Dòng sông nuôi lớn tuổi thơ tôi 
Sông Lục Nam cứ đầy vơi cùng năm tháng, dòng chảy mang nặng phù sa cho ta những tâm hồn dịu ngọt! Quê hương ông – xã Bảo Đài, Lục Nam, Bắc Giang, xứ sở của câu ca quan họ, có câu hát đồi là chuyện của làng trên xóm dưới, lời hát giao duyên liền anh liền chị cho đôi trẻ nên vợ nên chồng. Lặn ngụp tắm mát tuổi thơ trong dòng chảy hiền hòa, thơ mộng, thắm đậm từng khúc ru ca lòng mẹ! Trưởng thành trong lời ca “giã bạn” để lòng người bịn rịn lúc xa quê.

Giáp Văn Cương được sinh ra vào một ngày mùa thu năm 1921, trong một gia tộc thuộc bề trên, dư dả về của cải vật chất và cũng giàu có tấm lòng nhân ái, sẻ chia! Khác với những người thuộc lớp kì hào gian tham độc ác, ông bà thân phụ của Giáp Văn Cương được tiếng trong cả vùng là người sống đức độ, biết thương người. Đặc biệt, vốn liếng đáng quý của hai cụ là giàu lòng yêu nước, nhiệt thành ủng hộ kháng chiến Cách mạng, mang tiền của giúp đỡ phong trào, che giấu cán bộ hoạt động trong lòng địch.

Trong cái nhìn xa trông rộng của cha mẹ, đặt kỳ vọng vào cậu con trai Giáp Văn Cương, ông bà đã gửi cậu về Hà Nội học trong một trường có tiếng ngày ấy. Giáp Văn Cương, học sinh trường Bưởi “xem cây viết quả”, kế thừa gia tài từ “bài ca đạo lý dạy trong luân thường” của các cụ chăm sóc nuôi dạy. Giáp Văn Cương được thành toàn về tâm thức nay được học hành đến nơi đến chốn, đã vững vàng bản lĩnh của người được tu nghiệp học hành. “Tâm thức – tri thức” là hành trang giúp ông có đôi chân vững vàng bước vào đời. Ông tự nhủ: “Có tâm thức mà không tri thức là tâm thức chết, tri thức mà không có tâm thức thì chỉ hủy hoại tâm hồn mà thôi!”.

Từ mái trường Bưởi danh tiếng, cậu học sinh Giáp Văn Cương đã được tiếp xúc, thân gần với nhiều tầng lớp tri thức yêu nước, giác ngộ Cách mạng với nhiệt huyết tuổi trẻ. Sớm có lòng yêu nước nồng nàn, Giáp Văn Cương chán ghét chế độ thực dân hà khắc. Bước chân đầu đời, ông đã rời bỏ quê hương từ Bắc vào Nam lập nghiệp bằng kiến thức và sự am tường công việc. Ông đã ngồi vào vị trí trưởng ga Diêu Trì, một ga lớn thuộc Nam Trung Bộ ngày ấy, cơ hội thuận tiện cho ông được tham gia vào Ủy ban Khởi nghĩa ở thị xã Quy Nhơn.

Đô đốc Giáp Văn Cương kiểm tra sẵn sàng chiến đấu trên đảo Thuyền Chài năm 1988 
(ảnh tư liệu)

Màu cờ tôi yêu
Bước chân của người chiến sĩ lấy binh làm nghiệp lặn lội qua mọi miền Tổ quốc, có mặt ở nhiều chiến trường… ông tập kết ra Bắc rồi lại vào Nam... Từ một anh lính bộ binh, qua nhiều binh chủng, đến người chiến sĩ hải quân giữ biển, Giáp Văn Cương thực sự là một nhân chứng sống động về truyền thuyết bước chân lên rừng - xuống biển.

Như dòng suối chảy về sông

Muôn sông cũng một biển Đông quê nhà

Trọn quãng đời binh nghiệp còn lại của Giáp Văn Cương là hóa thân vào từng con sóng, ánh mắt như ngọn hải đăng dõi theo từng cọc tiêu, mốc biển “thẩm thấu cho một lối đi, về”. Mang tâm tình biết ơn, vinh danh công trạng của Hải quân nhân dân Việt Nam nói chung, Thượng tướng Đô đốc Hải quân đầu tiên Giáp Văn Cương nói riêng thì “lời lẽ nào nói cho đủ - giấy bút nào chép cho xong”. Xin được mượn trời xanh làm giấy - lấy biển xanh làm mực mà vinh danh, ngợi ca truyền thống dân tộc Việt Nam! Mãi mãi còn đó những tên làng, tên núi, tên sông, đặt tên trên từng biển đảo.

Có tình yêu nào lại gọi nhau bằng máu lửa đạn bom. Tình yêu đích thực là chúng ta cùng chung tâm tình nhìn về một hướng Biển Đông. Khi bình minh ló rạng, soi tỏ quốc kỳ Việt Nam lộng gió tung bay trên cột mốc kiên vững, khẳng định chủ quyền lãnh hải biển đảo quê hương trọn vẹn, bất biến trong từng dấu chấm phẩy. Mặn mà trong nắng gió thương yêu mà đẹp tựa trong sách xưa...

Một tấm lòng trân trọng tôi yêu! Thượng tướng Đô đốc Giáp Văn Cương, những mong tâm bút trong tản văn này như thể thắp ngọn nến lòng! Cùng hoa sóng đại dương kính nhớ về ông, “người đi hết biển”, hóa thân vào biển cả. Xanh mãi khúc hoan ca là tình yêu lính biển…
Hiện hữu hình bóng những cuộc đời, dặm trường bước chân hòa trong cánh sóng qua những thăng trầm khúc nhôi buồn… vui cùng dòng sử. Ông đã góp phần đời tận hiến với biển đảo bằng mọi công sức, nỗ lực… và những giọt mồ hôi của ông đã thêm phần cho “biển mặn” quê hương, đã lên men muối cho đời! Giáp Văn Cương đẹp mãi trong hoa sóng đại dương…

CON NGƯỜI VỚI TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC

08:18 |
Nếu không có tầm nhìn và sự quyết đoán trong hành động của đô đốc Giáp Văn Cương, Trường Sa có thể khó khăn hơn bây giờ, không toàn vẹn như vậy giờ.
Trong cuốn "Đảo Chìm" của Nhà thơ Trần Đăng Khoa - người lính đã nhiều năm đóng quân ở Trường Sa, hình ảnh Tư lệnh Giáp Văn Cương được khắc họa rất chân thực, không một chút hư cấu:
“... Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã đến đây, đã ngủ một đêm trên hòn đảo này trong một chuyến đi tuần biển.
- Vất vả không, các cậu?.
Tư lệnh hỏi một cậu lính trẻ, tóc đỏ quạch như tôm luộc, da đen cháy, người chắc nịch như một thỏi sắt đã tôi qua lửa. Cậu lính trẻ cười khì khì:
- Báo cáo bố, cũng tàm tạm thôi ạ!.
- Ở đây thì mọi thứ đều thiếu thốn rồi - giọng Tư lệnh bùi ngùi: Nhưng cái gì cần nhất cấp thiết nhất các cậu cứ nói thẳng với mình. Bộ Tư lệnh sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ các cậu!...
Ngồi bên Tư lệnh trên mặt cát nóng bỏng như rang, mặc dù mặt trời đã lặn xuống biển lâu rồi, anh lính trẻ quê xứ Nghệ thật sự coi ông như một đồng đội thân thiết. Anh lắc lắc đầu gối tư lệnh:
- Bố thấy vương quốc của chúng con thế nào?.
Tư lệnh đưa mắt nhìn suốt rẻo cát trống trơn, rồi lại nhìn cái lều bạt dã chiến cứ hộc lên trong gió tựa hồ một con ngựa bất kham, đang lồng lộn như muốn rứt tung mấy sợi xích sắt căng ghì xuống đảo mà phóng đi cùng bầy gió hoang dã.
- Đẹp, nền nếp. Đúng quân phong quân kỷ. Ở đây mà giữ được như thế này là tốt lắm rồi - Giọng Tư lệnh bỗng bùi ngùi - Tất nhiên là vất vả! Chúng mày rất vất vả! Tao biết! Nhưng khổ nỗi đây lại là Tổ quốc, là đất đai hương hỏa của ông cha, dù chỉ có đá sỏi gió cát thế này ta cũng phải canh giữ, một tấc không đi, một li không rời, dẫu có phải đổi bằng xương máu...
- Vâng, con hiểu! Con hiểu, bố ạ!...”.
"Nếu không có tầm nhìn và sự quyết đoán trong hành động của đô đốc Giáp Văn Cương, Trường Sa có thể khó khăn hơn bây giờ, không toàn vẹn như vậy giờ" -Thiếu tướng Lê Kế Lâm (nguyên Tham mưu phó Tác chiến Quân chủng Hải quân) đã khẳng định như vậy.
Nếu như những người lính trẻ đóng quân ở Trường Sa và DK1 những năm cuối Thập kỷ 80 của Thế kỷ trước không thể quên hình ảnh vị Tướng già mặc quần đùi đu lên nhà giàn quá đơn sơ lúc ấy, để kiểm tra độ an toàn cho chiến sĩ, sẽ nhớ mãi vị Tư lệnh 68 tuổi chào cờ cùng anh em và xắn quần lặn lội để kiểm tra việc gia cố cho đảo chìm... thì những cán bộ cấp cao lại nhớ đến những quyết định táo bạo của Tướng Giáp Văn Cương và phong ông là “vị tướng của Trường Sa” hay “Tư lệnh Trường Sa 1988”.
Năm 1984, do tình hình biển Đông có nhiều “diễn biến lạ”, Tướng Giáp Văn Cương được Bộ Quốc phòng điều động về làm Tư lệnh Hải quân lần thứ hai (lần đầu từ năm 1977-1980).
Trên cương vị mới, ông dự báo: “Trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên và sẽ là chiến trường chính của Hải quân Việt Nam”.
Do vậy, trong 2 năm 1986-1987, một mặt ông yêu cầu bộ phận Tác chiến soạn thảo gấp kế hoạch và phương án phòng thủ Trường Sa, mặt khác ông chủ động và kiên trì đề xuất với Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, chấp thuận kế hoạch bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và thềm lục địa phía Nam.
Kế hoạch đó được chấp thuận.
Ông ra lệnh: "Nhanh chóng dốc toàn lực, đặc biệt là Công binh, ra Trường Sa để tăng cường, củng cố tất cả đảo nổi đảo chìm mà quân dân Việt Nam đang đồn trú và sinh sống bao đời nay".
Đối với những đảo chìm thuộc chủ quyền Việt Nam, nhưng chưa có quân đồn trú, ông yêu cầu “Kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo, nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi”.
Giải thích khái niệm "ủi bãi". Đại tá Hải quân Nguyễn Trương giải thích: “Là cho tàu mở hết tốc lực lao thẳng lên cạn ở điểm đảo đó để khẳng định chủ quyền và chờ quân ra tiếp viện. Đó là một quyết định táo bạo vì một con tàu vào những năm khó khăn ấy là một tài sản lớn. Để tàu chìm là bị kỷ luật nặng, nhưng ông dám làm vậy vì ông coi chủ quyền lớn hơn tất cả. Mọi sự chậm trễ là có tội với tổ tiên và con cháu sau này”.
Và chính từ mệnh lệnh này, sáng 14/3/1988, con tàu HQ-505 anh hùng đã lao nhanh giữa những làn đạn đại bác, ủi thẳng lên đảo Cô Lin, khẳng định chủ quyền Việt Nam, trước khi lính Trung Quốc đổ bộ chiếm đảo.

BỘ ĐÔI PHÁO TỰ HÀNH UY LỰC CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

16:30 |
Là những "ông vua chiến trường" của pháo binh Việt Nam, pháo tự hành 2S1 và 2S3 sở hữu sức mạnh khủng khiếp có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 1
Pháo tự hành 2S1 Gvosdika do Liên Xô phát triển năm 1967 và chính thức đưa vào biên chế năm 1971. Đây là loại pháo được sản xuất với một số lượng rất lớn và phục vụ ở hàng chục quốc gia. 2S1 Gvosdika dùng khung thân xe thiết giáp chở quân MT-LB. Trên đó, nó lắp một pháo nòng xoắn D32 122 mm kết hợp hệ thống nạp đạn phụ trợ (tốc độ bắn 4-5 viên/phút).
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 2
 Vì pháo D32 cải tiến dựa trên pháo xe kéo D30 122 mm nên nó dùng hầu hết các loại đạn của D30 (đạn nổ phân mạnh, đạn chống tăng, đạn chùm, đạn khói, đạn chiếu sáng). Điều này giúp tiết kiệm, dễ dàng hơn cho việc cung cấp đạn dược. Lượng đạn dự trữ trên xe khoảng 40 viên, thường gồm 35 viên đạn nổ phân mảnh (tầm bắn 15 km) và 5 viên chống tăng.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 3
 Pháo tự hành 2S1 được điều khiển bởi tổ lái 4 người (trưởng xe, lái xe, pháo thủ, nạp đạn). Toàn bộ thân xe và tháp pháo bọc giáp thường giúp tổ lái chống đạn súng cỡ 7,62 hoặc 12,7 mm, mảnh đạn pháo.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 4
 Khung thân MT-LB lắp động cơ diesel YaMZ-238V 240 mã lực cho phép đạt tốc độ tối đa 60km/h. 2S1 có thể lội nước với tốc độ 4,5km/h nhưng nếu thực hiện điều này thì lượng đạn phải giảm xuống còn 30 viên.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 5
 Pháo tự hành 2S3 Akatsiya gần như là "anh em sinh đôi" với 2S1 khi nó cũng được phát triển đi vào phục vụ năm 1971. Loại pháo này cũng được sản xuất số lượng rất lớn, dây chuyền chế tạo hoạt động tới năm 1993 mới chấm dứt.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 6
 2S3 trang bị pháo D22 cỡ nòng 152 mm, có tốc độ bắn 3-4 viên/phút, theo lý thuyết nó có thể bắn 30 viên/10 phút hoặc 75 viên/h. Số lượng đạn dữ trữ trong xe khoảng 40 viên, thường gồm 36 viên nổ phân mảnh và 4 viên chống tăng.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 7
 Tương tự 2S1, pháo D22 là thiết kế cải tiến từ pháo xe kéo D20 152mm nên nó dùng chung các loại đạn D20 như đạn vạch đường, đạn nổ phân mảnh, đạn chống tăng, đạn chiếu sáng và thậm chí là đạn hạt nhân. Biến thể 2S3M sau này còn có thể bắn đạn tự dẫn chính xác cao Krasnopol.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 8
 Ngoài ra, 2S3 còn một súng máy phòng không cỡ 7,62 mm đặt trên nóc tháp pháo. Xạ thủ có thể điều khiển bắn từ trong xe mà không cần chui ra ngoài.
Bộ đôi pháo tự hành hạng nặng trong quân đội Việt Nam - Ảnh 9
 2S3 sử dụng khung thân xe bánh xích của hệ thống tên lửa đối không SA-4, lắp một động cơ diesel 520 mã lực cho phép đạt tốc độ 60km/h.
 Pháo 2S3 có thể vượt lũy cao 1,1 m, hào rộng 2,5 m và có tầm hoạt động lên đến 300 km.

CHUYÊN GIA QUỐC TẾ NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC CẢI TẠO VÀ MỞ RỘNG PHI PHÁP CÁC ĐẢO Ở TRƯỜNG SA CỦA TRUNG QUỐC

09:56 |
Theo phân tích của tờ Wall Street Journal, các đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc ở Trường Sa sẽ chẳng thể làm căn cứ xác định chủ quyền và càng không thể có giá trị về mặt quân sự.
Hình ảnh vệ tinh chụp Đá Chữ Thập đăng trên tạp chí Jane's Defence
Thời gian qua, dư luận quốc tế đã rất chú ý và tỏ ra vô cùng quan ngại trước sự ngang nhiên bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc để hối hả xây dựng, mở rộng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa mà họ đã cưỡng chiếm của Việt Nam từ vài thập kỷ trước.
Chỉ là khoa trương, phi thực tế
Để đánh giá về những hoạt động này, tờ Wall Street Journal đã sưu tập những hình ảnh các bãi đá đang được Trung Quốc  kiến tạo và mở rộng ở Trường Sa, đem đặt cạnh những hình ảnh chụp vị trí này trong năm ngoái. So sánh hình ảnh, người ta có thể dễ dàng nhận thấy diện tích các nơi này đã tăng gấp nhiều lần. Riêng đá Chữ Thập (Trung Quốc chiếm của Việt Nam năm 1988) đã được kiến tạo với diện tích tăng gấp hơn 10 lần so với năm ngoái và đã đưa nó trở thành hòn đảo lớn nhất quần đảo Trường Sa, lớn hơn cả diện tích của đảo Ba Bình mà Đài Loan chiếm của Việt Nam năm 1950.
Đáng lo ngại, không chỉ riêng đá Chữ Thập được kiến tạo, mở rộng mà Trung Quốc đã song song tiến hành cải tạo với 5 đảo và bãi đá khác, trong đó có đá Gạc Ma mà Trung Quốc cũng chiếm từ năm 1988 của Việt Nam. Gần đây, Trung Quốc còn xây đắp một vị trí thứ 7 ở đá Vành Khăn.
Giới chuyên gia quân sự và chiến lược chú ý tới sự kiện này nhất vì họ thấy được qua hành động đó, Trung Quốc thể hiện quyết tâm bành trướng lấn chiếm 90% diện tích Biển Đông, đối đầu với chính sách “xoay trục” của Mỹ.
Các chuyên gia của WSJ nhận định, mọi hành động này của Trung Quốc đều liên quan chặt chẽ đến Việt Nam trên mọi phương diện nhưng thực chất, nó mang ý nghĩa nhiều hơn đối với chiến lược châu Á của Mỹ.
Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động xây dựng phi pháp trên bãi đá Gạc Ma của Việt Nam
Theo đài RFA, để “tung hỏa mù” với các hành động của mình, Trung Quốc đã bật đèn xanh cho truyền thông trong nước tuyên truyền rằng, đá Chữ Thập là căn cứ lợi hại, từ đó có thể “tung ra một cuộc tấn công chiếm giữ thủ phủ miền Nam của Việt Nam trong vòng vài giờ”.
“Nhưng đó chỉ là sự khoa trương ồn ào. Nó được “giảm tông” bằng việc để cho các nguồn tin không chính thống loan tin chứ không phải do Quân ủy trung ương Trung Quốc phát biểu. Mục đích của lời hăm dọa này là để nhắc nhở các nước Đông Nam Á đừng trông chờ vào sự hỗ trợ của Mỹ”, chuyên gia của WSJ nhận định.
Tất nhiên, dư luận quốc tế thừa hiểu và giới chức lãnh đạo Trung Quốc cũng hiểu rằng việc “tung đòn tấn công vào thủ phủ ở miền Nam của Việt Nam” là một hành động rất phi thực tế và hành động của Bắc Kinh là tìm cách cát cứ hải dương, lập pháo đài trấn giữ con đường từ eo biển Malacca ngược lên Biển Đông.
Cũng theo phân tích của giới chuyên gia quân sự và chiến lược quốc tế, nhóm đảo nhân tạo này của Trung Quốc chỉ nhằm khoa trương về cái gọi là chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc từ Hải Nam với Trường Sa. Nó không đủ điều kiện địa lý và pháp lý để Bắc Kinh dựa vào đó xác định chủ quyền lãnh hải.
Về mặt quân sự, những vị trí này cũng chỉ mang tính hình thức. Ngay trong trường hợp giả dụ xảy ra chiến tranh, liệu cái căn cứ vững chắc và to lớn nhất trong nhóm đó là đá Chữ Thập có chịu nổi vài quả ngư lôi loại AsuW 53-65, 533 ly với khối nổ 300kg phóng từ tàu ngầm Kilo -636 hay không? Trận tấn công này có thể khiến cầu tàu, sân bay trên đá Chữ Thập cùng nhau chìm xuống đáy biển sau vài chục phút.
Với một vị thế mong manh như thế, những hòn đảo mới được tân tạo này có xứng đáng được gọi là “pháo đài trấn thủ Biển Đông” trước chính sách xoay trục của Mỹ? Nếu Trung Quốc dựa vào đó để làm căn cứ và điểm tiếp vận cho các hạm đội hải quân cùng hàng nghìn tàu đánh cá thì còn có vẻ thực tế hơn cả.
“Một nhóm đảo với rạn san hô ít ỏi, khi nổi khi chìm thì dù có được bồi đắp đến mấy cũng chỉ tạo được một hình thức không thực chất, không có gì lợi hại về mặt quân sự  và cũng không thể làm mốc cho lãnh thổ mở rộng. Ngay cả hòn đảo lớn nhất và kiên cố nhất ở Trường Sa là đảo Ba Bình bị Đài Loan chiếm giữ cũng không đủ điều kiện cho một căn cứ vững chắc trên biển. Phòng thủ trên một nhóm đảo nhỏ nhoi đó cũng đá khó chứ đừng nói đến căn cứ xuất phát tấn công”, tờ WSJ bình luận.
Tóm lại, hành động chiếm cứ và bồi đắp kiên cố những bãi đá ở Trường Sa không thể làm nghiêng cán cân lực lượng trước ưu thế quân sự tuyệt đối của Mỹ ở Biển Đông mà chỉ để tạo nên một hình ảnh lãnh thổ bao trùm, thổi phồng hình ảnh thành thực tế để cho cộng đồng quốc tế nếu có không công nhận thì cũng không thể đẩy được Trung Quốc khỏi vùng lãnh thổ, lãnh hải mà nước này quyết “bám chặt bằng mọi giá”.
Theo một số học giả Trung Quốc, việc cố gắng bồi đắp các nhóm đảo này của Bắc Kinh là nhằm chuẩn bị cho việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không mới ở Biển Đông. Việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không gần như chắc chắn sẽ được thực hiện khi Trung Quốc đủ lực lượng hải quân và không quân tuần tra đến tận Trường Sa. Ngay lúc này, Bắc Kinh đã và đang ráo riết chuẩn bị lực lượng nhằm mục đích này.
Nhóm đảo tân tạo còn có lợi cho Trung Quốc về kinh tế, trong lĩnh vực giao thông vận tải và ngư nghiệp. Từ tháng 7/2014, Trung Quốc đã khuyến khích ngư dân của họ mở rộng ngư trường về phía Nam và dụ dỗ rằng các tàu cá sẽ được tiếp liệu ở Trường Sa.
Trần Phong (Tổng hợp)

CÙNG KHÁM PHÁ TÀU ĐỔ BỘ CỦA AUSTRALIA

23:07 |
Tàu đổ bộ trực thăng Canberra đã hoàn thành chạy thử, thời gian bàn giao chính thức cho Hải quân Australia (RAN) được xác định là ngày 28 tháng 11 năm 2014.

Tàu đổ bộ trang bị trực thăng lớp Canberra đầu tiên của Australia

Chính phủ Australia đã tiếp nhận tàu đổ bộ trang bị trực thăng lớp Canberra đầu tiên, nhà thầu chính của chương trình là Công ty BAE Systems đã cho biết như trên trong thông cáo báo chí công bố ngày 8 tháng 10.
Australia có kế hoạch chế tạo 2 tàu đổ bộ lớp Canberra, trước khi đến Sydney chính thức đi vào hoạt động vào cuối năm 2014, chiếc đầu tiên mang tên HMAS Canberra sẽ tiếp tục ở lại nhà máy đóng tàu Williamstown của Công ty BAE Systems ở Melbourne. Thông cáo báo chí cho biết, thời gian tàu này chính thức bàn giao cho Hải quân Australia (RAN) được xác định là ngày 28 tháng 11 năm 2014.
Tàu đổ bộ HMAS Canberra được thiết kế trên nền tảng tàu sân bay Juan Carlos I do Công ty Navantia chế tạo, cuối tháng 8 năm 2014 đã hoàn thành chạy thử cuối cùng ở nhà chế tạo.

HMAS Canberra có chiều dài 230 m, lượng giãn nước 27.000 tấn, có khả năng vận chuyển được khoảng 100 phương tiện bọc thép, 1.100 binh sĩ và 12 máy bay trực thăng. Sau khi được đưa vào trang bị, đây sẽ là tàu chiến lớn nhất của Hải quân Australia.
Chiếc tàu đổ bộ lớp Canberra thứ hai mang tên Adelaide, vào tháng 2 năm 2014 di chuyển từ nhà máy đóng tàu Ferrol, Tây Ban Nha của Công ty Navantia đến Australia, hiện nay đang tiến hành lắp đặt thiết bị. Tàu Adelaide dự kiến bắt đầu chạy thử trên biển vào quý 2 năm 2015, bàn giao vào năm 2016.
Tàu đổ bộ trang bị trực thăng lớp Canberra đầu tiên của Australia
Đồng thời, ngoài 6 máy bay vận tải chiến lược C-17A Globemaster III của phi đội 36 thuộc căn cứ không quân Amberley ở bang Queensland, Australia cũng đã khởi động trình tự hợp đồng được lựa chọn 2 máy bay vận tải C-17A mới.
Trong một bản tuyên bố, Bộ trưởng Quốc phòng Australia David Johnson cho biết, nếu hợp đồng được lựa chọn này có thể thực hiện, hai máy bay vận tải C-17A tăng mới sẽ có thể "tăng cường rõ rệt khả năng thực hiện tác chiến, cứu nạn và cứu trợ nhân đạo của Không quân Australia trong phạm vi khu vực và toàn cầu".
Thông qua con đường bán vũ khí cho nước ngoài (FMS) của Mỹ, Australia ban đầu thông qua chương trình "Hàng không 800 (giai đoạn 3)", đã mua 4 máy bay vận tải dòng C-17 của Mỹ, trong đó chiếc máy bay đầu tiên bàn giao cho Australia vào năm 2006. Thời gian bàn giao của chiếc cuối cùng trong số 6 máy bay vận tải dòng C-17 hiện có là năm 2012.
Tàu đổ bộ trực thăng HMAS Canberra của Australia

LÒNG THAM VÀ TOAN TÍNH

21:31 |
Sau sự kiện giàn khoan HD 981, thì hiện nay Trung Quốc lại tiếp tục đẩy tình hình an ninh trên Biển Đông vào trạng thái nguy hiểm hơn khi cho cải tạo và xây dựng những cấu trúc địa chất thuộc quần đảo Trường Sa.

Báo chí trong nước và nước ngoài tập trung vào các hình ảnh vệ tinh của tạp chí tình báo quốc phòng IHS Janes[1] và lo ngại trước tình trạng Trung Quốc gia tăng các hoạt động xây dựng tại các cấu trúc địa lý này. Trang web của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS - Mỹ) đã liệt kê và cung cấp hình ảnh vệ tinh về việc Trung Quốc cải tạo và xây dựng 7 cấu trúc địa lý tại Trường Sa, bao gồm: đá Gạc Ma, đá Gaven, đá Huy gơ, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đá Subi, và đá Vành Khăn. Một số báo chí nước ngoài còn đề cập đến bãi Én Đất, nhưng còn có những tranh luận khác nhau về bên đang kiểm soát bãi này.
Tại sao Trung Quốc lại dốc sức xây dựng và cải tạo các cấu trúc tại Trường Sa? Việc xây dựng và cải tạo này của Trung Quốc có dẫn đến những hệ lụy gì cho các quốc gia láng giềng?
Có một số giải thích cho các hành động nói trên của Trung Quốc giúp Trung Quốc đạt được nhiều mục đích, cả về mặt chiến lược, quân sự lẫn pháp lý.
Về mặt chiến lược, Trung Quốc luôn nhấn mạnh yếu tố thế và thời trong chiến lược của họ, điều này cũng được Taylor Fravel nhắc tới trong cuốn sách “Strong Borders, Secure Nation”của ông ta[2]. Yếu tố thế yêu cầu Trung Quốc phải giành được thế thượng phong so với các bên khác tham gia tranh chấp. Trước năm 1988, Trung Quốc có vị trí kém trong khu vực Trường Sa vì Trung Quốc không thật sự kiểm soát được bất kỳ cấu trúc nào ở Trường Sa. Chính vì vậy, năm 1988 Trung Quốc đã tấn công quân đội Việt Nam để chiếm giữ một số cấu trúc, năm 1995 lại tiếp tục tấn công quân đội Philippines để chiếm giữ tiếp thêm bãi Vành Khăn. Cho đến nay, Trung Quốc đang kiểm soát 7 cấu trúc tại Trường Sa. Tuy nhiên, tất cả các cấu trúc tại Trường Sa mà Trung Quốc đang kiểm soát lại rất nhỏ, không tạo ra được các điểm tựa cho hoạt động quân sự, và như vậy, đó là một bất lợi về mặt chiến lược của Trung Quốc so với các bên tranh chấp khác.
Về yếu tố thời, đây đang là “thời điểm vàng” để Trung Quốc “tung hoành” trên Biển Đông, khi cả thế giới đang hướng về nhiều điểm nóng và vấn đề nóng như Nga, Ukraina, Hy Lạp cũng như khu vực Trung Đông với các điểm nóng Syri và tổ chức Hồi giáo IS… Quốc gia duy nhất có thể thách thức vai trò và hành động của Trung Quốc là Hoa Kỳ thì đang phải “phân thân” ra khắp thế giới, cho nên để khẳng định sức mạnh và vị thế của mình, Trung Quốc cần phải thay thế Hoa Kỳ để thống trị thế giới, địa bàn mà Trung Quốc muốn thách thức Hoa Kỳ đầu tiên chính là Biển Đông và Châu Á.
Về mặt quân sự, nếu như ở khu vực Hoàng Sa, Trung Quốc có căn cứ quân sự tại đảo Hải Nam, cũng như họ đã xây dựng đảo Phú Lâm thành một căn cứ quân sự cỡ nhỏ, điều này khiến Trung Quốc sẽ có lợi thế một khi xảy ra xung đột quân sự tại khu vực này. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra điểm yếu của Trung Quốc khi xảy ra xung đột quân sự tại Trường Sa, đó là khoảng cách khá xa từ đất liền của Trung Quốc tới khu vực này, khiến cho khả năng tiếp liệu của hải quân và không quân Trung Quốc bị hạn chế, cho nên, khi xây dựng các cấu trúc này thành các căn cứ quân sự cỡ nhỏ, nó sẽ trở thành những điểm tiếp liệu như những “tàu sân bay không chìm”, tạo sức mạnh liên hoàn trong chiến tranh trên biển. Đặc biệt, vị trí án ngữ địa lý khu vực Trường Sa của đá Chữ Thập mà Trung Quốc đang chiếm giữ sẽ tạo một sức mạnh đáng kể cho quân đội Trung Quốc nếu xảy ra xung đột trên khu vực này.
Về pháp lý, để biện minh cho các hành động “hung hăng” của mình trên Biển Đông, Trung Quốc lập lờ vin vào yêu sách “đường lưỡi bò”. Yêu sách này của Trung Quốc được lý giải không chính thức và rất khác nhau, một trong số đó là Trung Quốc lập luận rằng vì Trung Quốc có chủ quyền “không thể tranh cãi” đối với các nhóm quần đảo ở Biển Đông, mà các đảo này vì là đảo (Islands) nên theo khoản 2 điều 121 UNCLOS (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982) nó sẽ có các vùng biển như vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), thềm lục địa (CS) … và do đó đem lại cho Trung Quốc quyền hành xử trên vùng Biển Đông này.
Trong số các cấu trúc này thuộc Trường Sa, có đá Gaven, đá Ken Nan, và bãi Vành Khăn đã được Philippines nêu trong đơn khởi kiện Trung Quốc ra một Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS và yêu cầu Tòa xác định đó là các đảo nửa chìm nửa nổi (LTEs - Low tide elevations). Ba cấu trúc khác bao gồm đá Châu Viên, đá Chữ Thập và Gạc Ma thì Philipppines yêu cầu Tòa xác định là đá (Rocks) chứ không phải là đảo (Islands).
Theo quy định của UNCLOS tại điều 121 thì:
“1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.
3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa”.
Trung Quốc muốn thay đổi bản chất pháp lý của các cấu trúc địa lý này nhằm diễn giải lại UNCLOS theo cách của họ, bởi vì, theo quy định tại điều 121, muốn đáp ứng là một đảo, yêu cầu đầu tiên phải là “vùng đất tự nhiên”, vì thế, các cấu trúc này khi được con người cải tạo, bồi đắp nó không còn là “vùng đất tự nhiên” nên nó không đáp ứng được yêu cầu là “đảo”, mà chỉ đáp ứng yêu cầu của một “đảo nhân tạo” (Artificial Islands). Theo điều 60, khoản 8 của UNCLOS, thì: “Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa”.
Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài, phía Trung Quốc đã phớt lờ yêu cầu tham gia vụ kiện này từ phía Philippines và từ phía Tòa trọng tài. Nếu không có gì thay đổi, theo trình tự của phiên tòa, đến tháng 7/2015 Tòa trọng tài sẽ có phán quyết. Chính vì vậy, để nhằm làm thay đổi bản chất pháp lý của các cấu trúc này, như một hành động nhằm “ngụy tạo bằng chứng”, Trung Quốc nỗ lực biến các cấu trúc này thành đảo (Islands) nhằm mục đích hỗ trợ cho yêu cầu kiểm soát Biển Đông của họ.
Với hành động xây dựng này, Trung Quốc đã vi phạm quy định của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông mà Trung Quốc đã tham gia ký kết với ASEAN năm 2002, theo đó tại Điều 5 quy định: “Các bên liên quan cam kết tự kiềm chế không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, kể cả không tiến hành các hoạt động đưa người đến sinh sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm, dải đá ngầm và những cấu trúc khác hiện chưa có người sinh sống và xử lý các bất đồng một cách xây dựng”.
Tham vọng của Trung Quốc là đặt toàn bộ khu vực Biển Đông dưới sự kiểm soát của họ, mặc dù Trung Quốc biết rõ rằng họ sẽ không bao giờ được quốc tế ủng hộ nhưng họ đã bất chấp luật pháp quốc tế cũng như lẽ phải, công lý chỉ để đạt được cái mà họ muốn.
Rất có khả năng sau khi Trung Quốc hoàn tất việc xây dựng các cấu trúc này, Trung Quốc sẽ chính thức tuyên bố một vùng nhận diện phòng không (ADIZ) như Trung Quốc đã làm với biển Hoa Đông hơn một năm trước. Và nếu Trung Quốc làm như vậy, thì hoà bình ổn định, tự do và an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông sẽ bị đe doạ nghiêm trọng.
BDN